Tái cơ cấu kinh tế hiện nay: Yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao[1] (Thông tin và kiến nghị)


TS. Hồ Bá Thâm


Tóm tắt: Để khắc phục sự lạc hậu của cơ cấu kinh tế cũ, cần phải đổi mới cấu trúc ấy, tái cầu trúc nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, trong bối càng mới, nền tảng mới, nhân tố mới. Tất cả các ngành kinh tế, đơn vị kinh tế và các địa phương đều phải thực hiện tái cơ cấu, chuyển đổi sang một cơ cấu năng suất, chất lượng, hiệu quả và có sức cạnh tranh. Thực chất là phải đi vào đổi mới sáng tạo, đi vào giáo dục, khoa học công nghệ. Nội hàm của tái cơ cấu, đó là sự phân bổ lại nguồn lực trong nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Khó có thể thay đổi một cách căn bản phương thức phân bổ nguồn lực, nếu nhà nước không thay đổi vai trò, chức năng của mình phù hợp với kinh tế thị trường. Nhưng chất lượng nguồn nhân lực yếu kém và cơ cấu nguồn nhân lực chưa phù hợp có nguyên nhân quan trọng là công tác đào tạo nguồn nhân lực lỗi thời và chính sách phát triển nguồn nhân lực còn nhiều bất cập. Thực tế cho thấy mục tiêu đào tạo của các trường hiện nay so với yêu cầu và đòi hỏi thực tiễn của công việc vẫn tồn tại khoảng cách lớn, vừa thiếu vừa thừa. Từ đó đặt ra nhu cầu từ tái cấu trúc là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao với cơ cấu, có sức cạnh tranh thích ứng.

 


Vấn đề là phải đổi mới thật sự, toàn diện, cơ bản nền GDDT, nhất là hệ thống cao đẳng- đại học,khắc phục cho được khiếm khuyết, yêu kém của nó, nâng lên tầm cao chất lượng mới nhằm tạo nên một mô hình đại học mới, để có nguồn nhân lực chất lượng cao với cơ cấu phù hợp với hội nhập quốc tế và tái cấu trúc nền kinh tế đổi mới mô hình tăng trưởng. Phải đổi mới và thực thi đồng bộ phát triển nguồn nhân lực từ cấp vĩ mô đến vi mô một cách có hiệu quả cao nhất, mà trọng tâm là lĩnh vực GDĐT nguồn nhân lực.

 
I- NỘI HÀM CƠ BẢN CHUNG NHẤT CỦA TÁI CƠ CẤU KINH TẾ GẮN VỚI CẢI CÁCH NHÀ NƯỚC
 
1- Nội hàm cơ bản, chung nhất của tái cơ cấu kinh tế là gì?
 
Phải thừa nhận rằng chương trình tái cơ cấu kinh tế mà Chính phủ thực hiện trong 3 năm vừa qua vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Bởi vậy, cần phải đặt ra câu hỏi nội hàm của tái cơ cấu là gì. Thật ra, chương trình của Chính phủ dựa trên nội hàm của tái cơ cấu, đó là sự phân bổ lại nguồn lực trong nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Và lực lượng đóng vai trò phân bổ lại nguồn lực chính là thị trường (chứ không phải nhà nước, như cách hiểu trước đây về vai trò của nhà nước-HBT).
 
Bởi vậy, để đánh giá xem chúng ta đã tái cơ cấu được hay chưa thì trước tiên phải xem đã thay đổi được cách thức phân bổ nguồn lực như mục tiêu đề ra hay chưa. Theo quan sát của tôi thì không phải ai cũng nhận thức được nội hàm mà chính phủ đang thực hiện chương trình tái cơ cấu là như vậy. Chính vì vậy mới có nhiều ý kiến khác nhau (Nguyễn Đình Cung).
Mục tiêu của tái cơ cấu là để chuyển sang một mô hình tăng trưởng mới mà mô hình tăng trưởng ấy - tức là mô hình tăng trưởng dựa trên sự nâng cao chất lượng, năng suất hiệu quả, sức cạnh tranh và phát triển bền vững. Lâu nay, tất cả những điểm đó chúng ta đều chưa làm được và đã có những lúc cảm thấy đã tới hạn không thể tiến lên được nữa. Cho nên, nói về tái cơ cấu đừng có tách rời với chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Phải dựa vào mục tiêu để đánh giá chứ không phải chỉ đánh giá những việc làm cụ thể. Phải xem mục tiêu đã đạt được đến đâu, ví dụ năng suất, sức cạnh tranh, hiệu quả thế nào? Chứ không phải chỉ chăm chắm xem đã cổ phần hoá được bao nhiêu doanh nghiệp nhà nước, cắt giảm được bao nhiêu nợ công, xử lý được bao nhiêu nợ xấu.
 
Phân bổ lại nguồn lực mà lấy thị trường là yếu tố quyết định, chính là tiền đề, cơ sở để chúng ta thực hiện được tái cơ cấu, mà muốn làm được việc đó thì phải cải cách thể chế. Có quan điểm cho rằng, tái cơ cấu lúc nào cũng phải làm. Tôi không đồng ý như vậy. Với chương trình tái cơ cấu lần này, với nội hàm và mục tiêu rõ ràng như vậy thì chúng ta phải đặt ra một hạn định kết thúc cho nó, chứ không thể triền miên mãi được (Lưu Bích Hồ).
 
Vậy đến bây giờ, sau 3 năm có thể đánh giá kết quả nổi bật nhất chúng ta đạt được qua chương trình tái cơ cấu kinh tế là gì hay không? TS Nguyễn Đình Cung cho rằng: Chúng tôi có bộ phận liên tục theo dõi diễn biến và có những tham dẫn chỉ số căn bản của nền kinh tế. Qua đánh giá thì bước đầu những chỉ số như nâng cao hiệu quả, nâng cao năng suất, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đều có cải thiện. Ví dụ như trước đây, năng suất lao động tăng khoảng 3,5%/năm thì bây giờ đạt khoảng 4,3%/năm. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP – chỉ số phản ánh hiệu quả sử dụng các nguồn lực) vào tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2009-2010 là âm thì nay đã ở mức độ có thể chấp nhận được. Hệ số ICOR (chỉ số đo lường hiệu quả đầu tư - ICOR càng cao tức là càng kém hiệu quả) cũng giảm xuống. Tuy nhiên, nhiều người đặt vấn đề hoài nghi là các chỉ số cải thiện được như thế có thật là nhờ tái cơ cấu hay do yếu tố nào khác? Những chỉ số này được cải thiện trước tiên là chúng ta đã ổn định được kinh tế vĩ mô một cách chắc chắn và ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện cần thiết để cải thiện môi trường kinh doanh. Hai là, trong mấy năm vừa rồi chúng ta cải thiện môi trường kinh doanh rất mạnh mẽ và có những bước tiến khác biệt so với trước. Hai yếu tố đó kết hợp với những cải cách tái cơ cấu nhất định trong ba lĩnh vực là tài chính, đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước giúp cho thị trường vận hành tốt hơn. Nhưng nếu nhìn lại xem ta đã thay đổi căn bản phương thức phân bố nguồn lực trong nền kinh tế, trong đó thị trường là yếu tố quyết định hay chưa thì tôi tin rằng chúng ta chưa làm được (Nguyễn Đình Cung).
 
Tất cả các ngành kinh tế phải thực hiện tái cơ cấu, chuyển đổi sang một cơ cấu năng suất, chất lượng, hiệu quả và có sức cạnh tranh. Thực chất là phải đi vào đổi mới sáng tạo, đi vào giáo dục, khoa học công nghệ…[2]. Phải nhìn thẳng vào thực tế là chúng ta hầu như không làm được gì nhiều trong những lĩnh vực này. Nhưng không thể chỉ vì tập trung vào gỡ rối mà chúng ta không làm những việc khác. Đáng lẽ chúng ta phải vừa gỡ rối, vừa thúc đẩy những việc cần làm để chuyển đổi đi vào thực chất. Nói cho sòng phẳng thì những vấn đề mang tính bản chất như thế vẫn chưa nhúc nhích được là bao. Thử nhìn xem khoa học công nghệ tiến được bao nhiêu? Sáng tạo được bao nhiêu? Lĩnh vực giáo dục mới ra được nghị quyết, còn chuyển biến trên thực tế chưa rõ. Đối với môi trường kinh doanh, đúng là phải thừa nhận chúng ta đã đạt được bước tiến quan trọng, rồi xếp hạng năng lực cạnh tranh có nhích lên so với trước. Thế nhưng, nhiều người vẫn cảm thấy sốt ruột bởi vì những bước tiến đó vẫn còn chậm so với yêu cầu và khả năng của chúng ta (TS. Lưu Bích Hồ).
 
2. Phải cải cách thể chế kinh tế thị trường và nhà nước
 
Ở đây, tôi muốn quay lại nội hàm của tái cơ cấu là thị trường phân bổ lại nguồn lực. Muốn vậy, không thể né tránh cải cách thể chế, tức là phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, nói cách khác là phải nâng cấp trình độ kinh tế thị trường ở VN ở mức tương đối cao để thị trường vận hành tốt và thực sự đóng vai trò quyết định phân bố lại nguồn lực. Đổi mới thể chế ở đây, một mặt là thị trường nhiều hơn, nhưng đồng thời với thị trường nhiều hơn thì nhà nước phải hiệu quả hơn. Nói cách khác, phải thay đổi vai trò, chức năng, cách thức quản lý của nhà nước. Trên thực tế, chúng ta mới làm được chủ yếu ở vế thị trường. Vế thị trường thì cởi mở hơn, thông thoáng hơn, thậm chí có người nói là mở tối đa. Vế nhà nước mới là vế kìm hãm mà kinh tế thị trường thì hai vế phải đi liền với nhau. Chúng ta chuyển sang thị trường rồi nhưng nhà nước vẫn có cái gì đó mang tính chất hành chính, kế hoạch hóa tập trung, tư duy cũ và chính điều đấy ngăn cản cải cách thế chế hai bước trong bối cảnh hiện nay.
 
Chính phủ cũng chỉ làm được đến như thế thôi. Vế cải cách hệ thống nhà nước gần như chưa thay đổi được gì. Như thế thì ở vế thị trường, chúng ta có cải cách bao nhiêu đi chăng nữa cũng không nâng cấp được trình độ kinh tế thị trường ở VN. Cải cách nhắm vào khu vực nhà nước mới là cải cách. Nhưng đấy lại là cải cách khó.
 
Rõ ràng là khó có thể thay đổi một cách căn bản phương thức phân bổ nguồn lực, nếu nhà nước không thay đổi vai trò, chức năng của mình phù hợp với kinh tế thị trường. Nếu một ai đó đang có quyền mà bảo người ta từ bỏ nó đi thì rất khó. Cải cách là phải tìm kiếm những động lực mới, áp lực mới buộc người ta phải thay đổi. Thực ra, nói đến cải cách khu vực nhà nước là nói đến cải cách trên bốn phương diện. Thứ nhất: thay đổi lại vai trò, chức năng nhà nước trong kinh tế thị trường. Thứ hai, khi anh đã bàn đến thay đổi chức năng vai trò nhà nước rồi thì từ chức năng đó mới thiết kế cơ cấu bộ máy tổ chức nhà nước tương ứng. Thứ ba, xây dựng các công cụ quản lý phù hợp. Cuối cùng mới là năng lực quản lý, năng lực để sử dụng công cụ đó. Phải đổi mới trên cả bốn phương diện nhưng điểm khởi đầu phải bàn là thay đổi vai trò, chức năng nhà nước. Thời gian qua, chúng ta rất ít bàn đến cải cách nhà nước theo hướng như thế. Khi thảo luận về một số luật mới đang và sắp sửa ban hành, phần lớn chúng ta mới chỉ bàn luận ở vế tổ chức nhà nước như thế nào, chứ quên không bàn cho thấu đáo điểm quan trọng đầu tiên là vai trò của nhà nước không phải là đứng riêng mà là đứng bên cạnh thị trường, giúp thị trường vận hành tốt hơn. Toàn bộ cách thức thảo luận lâu nay đang thiếu đi thảo luận về đổi mới khu vực nhà nước. Chính cái thiếu này, nếu không được điều chỉnh kịp thời, sẽ hạn chế tác động tích cực của những luật như luật doanh nghiệp, luật đầu tư công…vốn đang được kỳ vọng tạo ra đột phá về mặt thị trường của môi trường kinh doanh. (TS Nguyễn Đình Cung)[3].
 
Trong những thời điểm khủng hoảng, nhà nước can thiệp rất mạnh. Tuy nhiên, sau khi can thiệp xong thì nhà nước rút đi, nhường chỗ cho thị trường chứ không phải ôm lấy luôn. Nguyên tắc của họ là chỉ khi thị trường thất bại, nhà nước mới can thiệp, sửa chữa xong xuôi thì nhà nước rút để thị trường vận hành. Thực tế, những nước nào có kinh tế thị trường đầy đủ và bao dung là những nước phát triển thịnh vượng… Tôi cho rằng do chúng ta thảo luận chưa trúng vấn đề. Ở thời điểm này, mặc dù cải cách vẫn nhằm mục tiêu nâng cấp chất lượng của thị trường nhưng trọng tâm không phải là tự do hóa như trước đây. Hồi trước, nhà nước rút đi để thị trường tiến lên. Còn bây giờ, thực tế đặt ra đòi hỏi nhà nước phải thay đổi, phải cải cách để thị trường thực sự nâng tầm. Mà chính việc đổi mới nhà nước, ở đây là cả ba nhánh quyền lực phải đổi mới đồng bộ, mới là cải cách khó khăn. Rõ ràng, vai trò chức năng của nhà nước phải thay đổi. Trong khi đó, đã có những giá trị phổ quát, được thừa nhận rộng rãi về vai trò chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Chúng ta đâu cần phải bàn nhiều, có những điểm mang tính phổ quát thì cứ đưa về áp dụng. Đương nhiên, có thể có những điểm cần phải thay đổi trong bối cảnh của Việt Nam. Chúng ta có thể thảo luận áp dụng mô hình nào cho phù hợp[4](TS Nguyễn Đình Cung)[5].
 
3- Tóm lại, mục tiêu của tái cơ cấu là để chuyển sang một mô hình tăng trưởng mới mà mô hình tăng trưởng ấy - tức là mô hình tăng trưởng dựa trên sự nâng cao chất lượng, năng suất hiệu quả, sức cạnh tranh và phát triển bền vững. Và nhà nước phải thay đổi vai trò, chức năng của mình cho phù hợp với kinh tế thị trường (đầy đủ) ngày càng hiện đại. Từ đó đặt ra nhu cầu nghiêm ngặt từ tái cấu trúc là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao với cơ cấu phù hợp, có sức cạnh tranh thích ứng.
 
II- THỰC TRẠNG VÀ THÁCH THỨC VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC[6]
 
Chất lượng nguồn nhân lực yếu kém và cơ cấu nguồn nhân lực không phù hợp có nguyên nhân quan trọng là công tác đào tạo nguồn nhân lực lỗi thời và chính sách phát triển nguồn nhân lực còn nhiều bất cập.
 
Chúng tôi cũng đã có một số nghiên cứu và bài viết về lĩnh vực này[7] và thông tin về vấn đề này cũng rất nhiều.
 
- Đào tạo nghề giẫm chân tại chỗ. Trong khi quy mô ĐH, CĐ tăng đột biến thì quy mô đào tạo nghề tăng chậm và có năm giảm. Cụ thể, năm 2010 chỉ tiêu tuyển mới dạy nghề là gần 1,7 triệu SV; năm 2012 còn hơn 1,5 triệu SV (giảm 16%). Nền kinh tế Việt Nam hiện rất cần công nhân có tay nghề cao thì tại sao quy mô đào tạo nghề lại giẫm chân tại chỗ? Và hậu quả là cử nhân tốt nghiệp ĐH phải đi học nghề lại để làm việc ở các vị trí của công nhân (PGS-TS Phan Bảo Ngọc)[8]. Trong khi đó lao động trình độ ĐH, CĐ thất nghiệp năm 2014 so với 2010 tăng 103%. Thế là 3 năm tăng nửa triệu sinh viên. Chỉ trong 4 năm, số lượng cử nhân thất nghiệp tăng hơn gấp đôi[9]. Đây là con số rất đáng lo.
 
- Bộ GD-ĐT đã đưa ra nhiều nguyên nhân lý giải thực trạng này: điều kiện bảo đảm chất lượng của một số cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu của đào tạo, đội ngũ giảng viên thiếu về số lượng, không tương xứng với quy mô đào tạo, điều kiện cơ sở vật chất nghèo nàn, trang thiết bị lạc hậu; nhiều cơ sở giáo dục ĐH đào tạo chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế; quy trình mở trường, cấp phép hoạt động trong một thời gian dài còn thiếu quy định chặt chẽ…Ngoài ra, Bộ GD-ĐT còn đẩy nguyên nhân cho thị trường lao động còn sơ khai, chưa đủ thể chế để hoạt động hiệu quả; việc quy hoạch phát triển nhân lực của địa phương, bộ ngành mang tính hình thức, chưa sát thực tế; xã hội còn tâm lý chuộng bằng cấp…
 
Quy mô đào tạo các trường ĐH, CĐ giai đoạn 2008-2012, theo đó, giai đoạn này số lượng sinh viên ĐH, CĐ tăng lên nửa triệu người. (Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo)
 
Những nguyên nhân mà Bộ GD-ĐT đưa ra đều có lý nhưng theo các chuyên gia giáo dục và các nhà nghiên cứu, nguyên nhân dẫn đến việc năm 2014 đạt đỉnh về tỉ lệ thất nghiệp chính là hậu quả của việc tăng quy mô đào tạo trình độ CĐ, ĐH 3-4 năm trước[10].
 
Năm 2008-2009, quy mô đào tạo là khoảng 1,7 triệu SV thì năm 2011-2012 đã tăng lên 2,2 triệu SV. Nếu so với quy mô đào tạo bậc ĐH của ĐHQG TP HCM (khoảng 50.000 SV) thì quy mô đào tạo giai đoạn này tăng tương đương với… 10 ĐHQG. Chỉ trong 3 năm mà tăng đến nửa triệu SV quả là con số khủng khiếp!”. Vào ồ ạt và theo đó là số SV ra trường cũng tăng đột biến. Năm 2012-2013, số SV tốt nghiệp là hơn 425.000 người, tăng 165% so với năm 2010 và gấp 2,2 lần so với năm 2005. Thị trường lao động vì thế không thể đón nhận hết dẫn đến hậu quả tất yếu là “đỉnh” thất nghiệp chưa từng có. “ Tỉ lệ thất nghiệp năm 2014 tăng gấp đôi so với năm 2010 là hậu quả tất yếu của việc tăng quy mô đào tạo quá nhanh. Đây là triết lý nhân quả trong giáo dục mà các nhà quản lý cần nhìn nhận” (PGS-TS Phan Bảo Ngọc, giảng viên Trường ĐH Quốc tế - ĐHQG TP HCM).
 
Và mở trường, mở ngành tràn lan và qui mô tăng nhanh. Điều đáng nói là trong việc mở rộng quy mô đào tạo, tỉ trọng SV các trường ĐH, CĐ ngoài công lập tăng chóng mặt. Nếu năm 2004-2005, ĐH ngoài công lập chỉ có khoảng 113.000 SV thì đến năm 2009-2010 là 174.000 SV (tăng trên 53%). Quy mô các trường CĐ ngoài công lập năm 2004-2005 chỉ có 25.000 SV thì đến năm 2009-2010 đã tăng gần 105.000 SV (tăng trên 300%). SV ở khu vực công lập cũng tăng đáng kể. Cụ thể, năm 2004-2005 là 933.000 SV thì đến 2009-2010 tăng gần 1,2 triệu SV (tăng 27%); bậc CĐ công lập từ 249.000 SV tăng lên 471.000 SV (tăng 90%). Ở khu vực công lập giai đoạn này có sự tăng quy mô vượt trội do hàng loạt trường ĐH, CĐ được thành lập mới hoặc nâng cấp từ bậc thấp hơn[11]. Nâng tổng số trường ĐH, CĐ lên 419 trường (năm 2011-2012).
 
Quy mô tăng, giảng viên tiến sĩ giảm. Theo ông Trần Anh Tuấn, nguyên nhân thất nghiệp có nhiều, tuy nhiên có thể thấy 2 lý do cơ bản: Có ít chỗ làm hơn so với nhu cầu của người tìm việc phù hợp với ngành nghề đã được đào tạo; số lượng chỗ làm việc nhiều nhưng nhiều người tìm việc không đáp ứng trình độ hoặc không muốn làm những công việc đó. Trường hợp thứ nhất tồn tại về “thiếu hụt chỗ làm việc”, trường hợp thứ hai “không phù hợp cơ cấu đào tạo nghề và nhu cầu nhân lực”. Như vậy, có thể nhận định nguyên nhân thất nghiệp cốt lõi là vấn đề đào tạo nghề, kỹ năng nghề chưa đáp ứng nhu cầu thực tế. Và thực tế là các trường chạy theo số lượng đã buông lỏng chất lượng đào tạo. Đội ngũ giảng viên (GV) chính là yếu tố sống còn để nâng chất lượng nhưng thực tế dù quy mô SV tăng chóng mặt nhưng quy mô GV tăng không tương xứng. Từ năm 2009-2010 đến 2011-2012, dù số lượng SV tăng 226.000 người nhưng GV chỉ tăng 3.900 người; trong đó GV bậc tiến sĩ chỉ tăng 830 người. Đặc biệt, ở bậc CĐ quy mô GV còn giảm, cụ thể năm 2009-2010 có 24.600 GV thì năm 2010-2011 giảm còn 23.600 GV; trong đó GV tiến sĩ giảm từ 656 người năm 2009-2010, còn 586 người năm 2010-2011.
 
Riêng tiêu chí về diện tích đất bình quân tối thiểu phải là 55 m2/SV thì hầu như không cơ sở giáo dục ĐH ngoài công lập nào đạt được[12]. Về giải quyết việc làm cho SV tốt nghiệp thì điều kiện bảo đảm chất lượng của nhiều trường còn hạn chế, điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo, uy tín chất lượng đào tạo chưa cao, khả năng cạnh tranh thấp nên SV tốt nghiệp gặp khó khăn nhiều trong tìm kiếm việc làm. TS Đàm Quang Minh, Hiệu trưởng Trường ĐH FPT, cho rằng không phải là các đơn vị tuyển dụng không tuyển người, thậm chí các đơn vị giành giật nhau trong tuyển dụng là đằng khác. Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực nguồn nhân lực không đáp ứng được tiêu chuẩn của các đơn vị tuyển dụng, đặc biệt là nguồn nhân lực về công nghệ - kỹ thuật cao.
 
Đầu ra quá dễ. Các chuyên gia cho rằng trường ĐH, CĐ không dựa vào thông tin thị trường lao động và việc làm để xây dựng kế hoạch và thực hiện đào tạo theo nhu cầu sử dụng lao động nên chỉ chú trọng đào tạo những gì trường có khả năng mà không đào tạo những ngành xã hội cần và có nhu cầu lớn. “Cơ cấu đào tạo rất mất cân đối, nhiều trường chú trọng đào tạo các ngành kinh tế để rồi thừa, trong khi những ngành kỹ thuật như hàn, cơ khí, tự động hóa... rất cần nhân lực thì lại hiếm” - (Trần Anh Tuấn[13]). “Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) chỉ hoạnh họe, làm khó để có cái “dễ” khi mở trường. Thành lập trường rồi, nhiều trường dạy không ra gì, không sát thực tế và đặc biệt khi SV ra trường, Bộ không hề “làm khó”, đầu ra hoàn toàn thả lỏng”(GS Võ Tòng Xuân[14].
 
Đặc biệt, có sự bất hợp lý trong cơ cấu ngành nghề đào tạo. Thống kê cho thấy năm 2011-2012 có đến 403 ngành kinh doanh quản lý; 363 ngành khoa học GD-ĐT; 280 ngành khoa học nhân văn; 232 ngành công nghệ kỹ thuật... Trong khi những ngành như nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ có 116 ngành; thú y: 8 ngành, môi trường và bảo vệ môi trường: 28 ngành; dịch vụ vận tải: 12 ngành... Như vậy, phần đông các trường ĐH, trong đó phần lớn là các cơ sở ngoài công lập, vẫn tập trung mở và tuyển sinh ngành dễ dạy, dễ học, dễ thu hút SV nhưng ít tốn kém cơ sở vật chất, trang thiết bị thí nghiệm, thực hành trong quá trình đào tạo. TS Đàm Quang Minh[15] nhận định: Rõ ràng có sự mất cân đối ngành nghề và mở rộng quy mô tràn lan. “Chạy theo quy mô nên chất lượng giáo dục không được chú trọng. Trong khi đáng ra cần đầu tư vào những trường quy mô nhỏ nhưng chất lượng và chuyên sâu thì chúng ta lại đào tạo và mở trường, mở ngành bất hợp lý, chạy theo số lượng”[16].
 
- Các trường ĐH, CĐ mải chạy theo việc mở rộng quy mô mà không chú trọng đến chất lượng đào tạo đã khiến cử nhân tốt nghiệp hàng loạt nhưng không đáp ứng với đòi hỏi thực tế của thị trường lao động“. Các doanh nghiệp than phiền sinh viên (SV) ra trường không đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng, trong đó 70% yếu kỹ năng như giao tiếp, làm việc nhóm, thiếu tinh thần kỷ luật và đặc biệt là yếu ngoại ngữ...
 
Thực tế cho thấy mục tiêu đào tạo của các trường hiện nay so với yêu cầu và đòi hỏi thực tiễn của công việc vẫn tồn tại khoảng cách lớn”(Trần Anh Tuấn), vừa thừa vừa thiếu, rất nghiêm trọng[17].
 
III- CẦN CẢI CÁCH MẠNH MẼ NGÀNH GDĐT ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO ĐÁP ỨNG YÊU CẦU TÁI CƠ CẤU KINH TẾ… GẮN VỚI CẢI CÁCH NHÀ NƯỚC
 
1- Phải đổi mới mạnh mẽ về nhận thức, tư duy, cách làm về giáo dục con người và nhân lực
 
Theo bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước, cho rằng cụ thể hóa chủ trương của Đại hội XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo[18] (tóm tắt sau đây).
 
- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục lại đang là một yêu cầu cấp bách trước thực trạng bất cập trong lĩnh vực giáo dục đối với những đòi hỏi gay gắt về nguồn lực con người để phát triển đất nước nhanh, bền vững và xây dựng một xã hội lành mạnh hơn. Càng cấp bách, nếu đối chiếu những phẩm chất và năng lực của học sinh, sinh viên - sản phẩm của nền giáo dục Việt Nam - với chuẩn mực giáo dục đang ngày càng cao ở các nước phát triển cũng như so với tiến bộ về khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hóa…
 
Trước các vấn đề đang đặt ra trong lĩnh vực giáo dục, cần khẩn trương nhưng không thể cứ nghĩ như cũ, làm như cũ, bởi như cũ đã không giải quyết được vấn đề mà còn khiến cho những khuyết tật trong hoạt động giáo dục và trong hệ thống giáo dục ngày thêm trầm trọng. Nhiều nhà giáo, nhà khoa học cho rằng, để đổi mới giáo dục và đào tạo một cách căn bản, toàn diện cần phải thay đổi cách nghĩ, cách làm. Do đó, “phải đổi mới tư duy giáo dục”.
 
- Đổi mới tư duy giáo dục có nội hàm rất rộng, đụng chạm đến hầu hết những vấn đề thuộc, hoặc liên quan đến, hoạt động giáo dục và hệ thống giáo dục, đòi hỏi một sự xem xét cặn kẽ để thấy những gì là giá trị đích thực cần kế thừa, những gì đã trở thành lạc hậu khi đối chiếu với những yêu cầu mới... Nghị quyết 29 đã xác định các quan điểm và định hướng, các mục tiêu và giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống giáo dục. Nhưng muốn thực hiện các quan điểm và định hướng, các mục tiêu và giải pháp đã được nêu trong Nghị quyết, rất cần xây dựng một kế hoạch tổng thể để cơ quan điều hành có cái nhìn bao quát về sự thay đổi sẽ xảy ra của toàn bộ hệ thống giáo dục, đồng thời có thể hình dung được một cách cụ thể sự chuyển dịch của từng lĩnh vực/từng bộ phận cấu thành hệ thống, trên cơ sở đó xác lập quy trình tối ưu để tổ chức thực hiện từng mục tiêu và giải pháp phù hợp với các dự báo về điều kiện vật chất và tinh thần.
 
- Nghị quyết 29 hiện còn để ngỏ một số vấn đề, trong đó có việc đổi mới cơ cấu hệ thống giáo dục. Đây là việc nhất thiết phải làm vì, cơ cấu hệ thống hiện có còn chưa hợp lý khiến cho việc phân luồng và hướng nghiệp ở giáo dục phổ thông khó thực hiện. Mặt khác, cơ cấu hệ thống là căn cứ cho việc xây dựng chương trình giáo dục. Chủ trương trước mắt ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay cần được tính toán kỹ lưỡng về mặt thời gian, định rõ “trước mắt” là đến năm nào. Hợp lý nhất là, hệ thống giáo dục chỉ giữ nguyên cơ cấu hiện có cho đến khi bắt đầu triển khai chương trình mới. Và chương trình mới cần được xây dựng theo cơ cấu mới được xác định trong kế hoạch tổng thể. Vấn đề thời gian dành cho giáo dục phổ thông 11 hay 12 năm chỉ là một phần. Ngay cả khi duy trì phương án 12 năm (5+4+3), thì cơ cấu hệ thống vẫn phải đổi mới theo hướng hình thành các loại trường sau trung học cơ sở và sau trung học. Chỉ riêng việc hình thành các loại trường sau trung học cơ sở và sau trung học cũng đòi hỏi phải có quan điểm mới và giải pháp mới khi xây dựng chương trình mới. Cách làm hiện nay của ngành giáo dục là xuất phát xây dựng chương trình giáo dục phổ thông (theo cơ cấu hệ thống 5+4+3 hiện nay), rồi từ đó đó đặt ra và giải quyết những vấn đề khác của hệ thống giáo dục. Cách làm đó thể hiện tư duy theo lối mòn và chưa có thể tạo ra được sự thay đổi căn bản, toàn diện mà chỉ thu gọn các cuộc cải cách/đổi mới giáo dục thành một cuộc thay đổi chương trình và sách giáo khoa với chồng chất những chủ trương mang tính xử lý tình thế.
 
- Trong đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục - đào tạo, quan trọng nhất là đổi mới mục đích, mục tiêu giáo dục. Cho đến nay, nhà trường nước ta vẫn tập trung vào việc truyền thụ kiến thức một cách thụ động, cốt làm sao cho học sinh, sinh viên tiếp thu được càng nhiều kiến thức càng tốt. Cuối cùng, văn bằng dành cho ai cũng lại căn cứ vào chỗ thuộc được nhiều kiến thức sách vở. Đành rằng, truyền thụ kiến thức là cần thiết, nhưng với sự phát triển của khoa học, đặc biệt khoa học giáo dục, nhà trường có một tầm vóc cao hơn, ảnh hưởng to lớn hơn đối với sự phát triển của thanh thiếu niên. Nhà trường có thể phát huy tiềm năng của từng con người, từ đó phát huy sức mạnh của cả dân tộc, để chúng ta không tụt hậu, mà phát triển không thua kém các nước trong khu vực. Đấy mới chính là những điều đất nước đang đòi hỏi cấp thiết đối với nhà trường, trong bối cảnh đất nước đang đối mặt với những thách thức gay gắt, phải bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Rõ ràng cần xác định lại mục đích, mục tiêu giáo dục, từ đó thay đổi nội dung và phương pháp giảng dạy, học tập cũng như thay đổi cung cách quản lý giáo dục. Để làm việc đó, trước hết cần khắc phục những điểm hạn chế đã từng có trong việc xác định mục đích/mục tiêu giáo dục trước đây như: quá nhấn mạnh việc hình thành các thế hệ, xem nhẹ sự phát triển cá nhân; quá nhấn mạnh vào những tình cảm lớn mà bỏ qua, hoặc trình bày không đầy đủ các giá trị về nhân cách cá nhân phổ quát; quá nhấn mạnh về kiến thức, xem nhẹ việc hình thành và phát triển thái độ và kỹ năng - kỹ năng thực hành, kỹ năng tư duy, sáng tạo.
 
- Tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, để xây dựng năng lực hợp tác, không những người ta phát triển ở trẻ em kỹ năng làm việc theo nhóm, mà còn chú ý phát triển những kỹ năng lãnh đạo, xem đó là một kỹ năng then chốt cần thiết cho mỗi học sinh để có thể cạnh tranh trên toàn cầu. Đơn giản vì những kỹ năng lãnh đạo góp phần kiến tạo năng lực lập thân, lập nghiệp (làm chủ gia đình, làm chủ cơ sở kinh doanh...); và sâu xa hơn, đó là yêu cầu của một xã hội phát triển theo hướng dân chủ hóa. Vấn đề lớn hơn, không nằm ở câu chữ diễn đạt mục đích/ mục đích/ mục tiêu giáo dục mà ở nội dung và phương pháp giáo dục, ở toàn bộ hoạt động của các nhà trường và của toàn ngành. Về mặt này, Nghị quyết 29 đã nhận định một cách khái quát: “Mục đích/mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng. Bệnh hình thức, hư danh, chạy theo bằng cấp... chậm được khắc phục, có mặt nghiêm trọng hơn”. Ở mức độ cụ thể, có thể thấy: Việc dạy và học nhằm đạt kết quả thi cử đã làm cho hoạt động giáo dục trong nhà trường xa rời mục tiêu phát triển toàn diên nhân cách; bệnh thành tích lây lan phổ biến đã đi ngược mục tiêu đào tạo con người trung thực; bắt học sinh nghĩ theo, nói theo, làm theo đã cản trở mục tiêu đào tạo con người tự chủ, sáng tạo. Rõ ràng, mục đích/mục tiêu giáo dục chỉ có thể thực hiện được thông qua hoạt động giáo dục dựa trên các chương trình giáo dục được thiết kế một cách khoa học. Một hạn chế cho đến nay là, việc soạn thảo chương trình vẫn mang nặng tính kinh nghiệm vì đội ngũ chuyên gia được đào tạo một cách bài bản về xây dựng chương trình còn rất mỏng. Điều đó có thể bù đắp bằng tự đào tạo và học hỏi kinh nghiệm từ các nước phát triển. Còn vấn đề quan trọng nữa phụ thuộc vào sự chỉ đạo chuyên môn của các cấp quản lý giáo dục và đặc biệt là phụ thuộc vào năng lực thực hiện chương trình của từ.
 
- Trong công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, nhất thiết phải chăm lo phát triển nhân lực của ngành đào tạo nhân lực. Trong tất cả các nghị quyết của Đảng về giáo dục đều nhấn mạnh vai trò của nhà giáo và yêu cầu xây dựng đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu, có phẩm chất và năng lực nhưng trên thực tế vấn đề giáo viên phổ thông cũng như giảng viên đại học vẫn còn tồn đọng, chưa một lần được giải quyết một cách bài bản. Lần này, Nghị quyết 29 có nhận định: Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận (chắc là không nhỏ) chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục... Rõ ràng, nếu không lo giải quyết tận gốc vấn đề nhân lực của chính cái ngành có trách nhiệm đào tạo nhân lực, thì không thể tạo được chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục. Trong nhân lực của ngành giáo dục, đông nhất là nhà giáo. Đấy là lực lượng chủ lực. Để nâng cao chất lượng giáo dục cần nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Cần đổi mới công tác đào tạo các thế hệ giáo viên sẽ vào nghề trong những năm sắp tới.
 
- Như vậy, hệ thống các trường sư phạm cần được sắp xếp lại để đủ sức thực hiện ba nhiệm vụ: 1)- Đào tạo giáo viên mới, 2)- Bồi dưỡng/đào tạo bổ sung giáo viên đang đứng lớp, và 3)- Làm đầu tàu đổi mới giáo dục phổ thông. Các trường sư phạm cần xây dựng lại chương trình theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực chuyên nghiệp ở những thanh niên đã chọn nghề thầy, giúp họ có kỹ năng học tập thường xuyên ngay cả khi đã làm thầy. Điều cực kỳ quan trọng là phải thay đổi chính sách đãi ngộ đối với nhà giáo. Nghị quyết 29 có ghi: Lương của giáo viên được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp...Cần phải thấy, tăng lương và phụ cấp cho thầy cô giáo là yêu cầu bức thiết để tạo động lực nghề nghiệp cho nhà giáo. Tiền lương còn thể hiện thái độ trọng thị đối với nhà giáo và nghề dạy học. Qua việc trả lương cao cho thầy, cô giáo sẽ tạo cho nhà giáo và nghề dạy học một vị thế cao trong xã hội. Đòi hỏi thầy, cô giáo dồn trí tuệ, sức lực vào việc dạy học trong khi lương trả cho các thầy, cô không đủ để sống thì là trái đạo lý. Hơn nữa, chừng nào lương của nhà giáo chưa cao thì khó có thể thu hút học sinh khá, giỏi ở phổ thông vào các trường sư phạm.
 
- Trong kiến nghị của đề tài nghiên cứu về cải cách công tác đào tạo bồi dưỡng giáo viên phổ thông do Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam tổ chức thực hiện, có đề xuất, cần tạo điều kiện hình thành các hội nghề nghiệp của nhà giáo, tương tự như Hội Luật gia, Hội Đông y… để thúc đẩy tiến trình chuyên nghiệp hóa. Các tổ chức này sẽ huy động sự đóng góp của nhà giáo vào công cuộc chấn hưng giáo dục, vận động thực hiện quy ước đạo đức nghề nghiệp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà giáo. Đồng thời, cần có Luật nhà giáo làm cơ sở pháp lý cho việc nâng cao phẩm chất, năng lực và trách nhiệm của mỗi thầy, cô giáo.
 
- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, khởi đầu bằng đổi mới tư duy giáo dục, có nhiều việc phải làm, nhưng trước hết, chính lãnh đạo tất cả các cấp cần thể hiện sự quán triệt quan điểm “quốc sách hàng đầu” bằng việc làm cụ thể. Nhìn vào thực trạng yếu kém, bất cập trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, có thể nói thẳng, các cấp lãnh đạo chưa thật sự coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Hiện nay, ngành giáo dục đang tích cực triển khai Nghị quyết 29, nhưng lẽ ra các ngành khác cũng cần chủ động tham gia. Để Nghị quyết 29 được thực hiện thắng lợi, lãnh đạo từ cấp cao và các ngành đều phải thể hiện sự quán triệt quan điểm “quốc sách hàng đầu” bằng hành động, không thể khoán trắng cho ngành giáo dục, không thể để ngành giáo dục đơn độc. Quán triệt quan điểm “quốc sách hàng đầu” bằng hành động cụ thể chính là thể hiện đổi mới rõ rệt nhất về tư duy giáo dục ở lãnh đạo[19].
 
2- Phải tập trung cải cách đại học, tạo nên một mô hình đại học mới phù hợp với xu thế thời đại của nền đại học thế giới[20].
 
Nhóm Đối thoại giáo dục Việt Nam (VED) do GS Ngô Bảo Châu chủ trì vừa được gửi tới lãnh đạo giáo dục, một số kiến nghi như sau: Bản kiến nghị gồm 5 nhóm vấn đề chính, là kết quả nghiên cứu về phương hướng cải cách đại học của nhóm, được thực hiện trong 3 năm. Quan điểm của nhóm Đối thoại giáo dục (VED) là “hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cần được cải cách cơ bản và sâu sắc ngay từ nguyên lý và quy tắc tổ chức”, và “cải cách cơ bản và sâu sắc là một quá trình lâu dài và liên tục, không phải là một đơn thuốc có tính công phạt”.
 
Địa phương quản trường, Bộ điều tiết tầm quốc gia. Vấn đề đầu tiên mà nhóm đưa ra là CẢI CÁCH MÔ HÌNH QUẢN TRỊ ĐẠI HỌC, để nền đại học Việt Nam có sức sống và sức phát triển.
 
Theo nhận định của VED, ở một nghĩa nào đó, hơn 330 trường đại học và cao đẳng công lập ở Việt nam chưa có “chủ” thực sự. Hiện tại, một số đại học Việt Nam đã có hội đồng trường, nhưng số lượng ít và những hội đồng đang tồn tại chủ yếu chỉ có chức năng tham vấn. Nhóm này cho rằng thay cho các hội đồng trường thì các trường đại học cần có hội đồng uỷ thác với quyền lực tương tự như hội đồng quản trị của các doanh nghiệp. Việc thành lập hội đồng uỷ thác và thiết lập cơ cấu của nó gắn liền với việc nhà nước phân quyền làm “chủ” đại học cho địa phương và các bộ, ngành liên quan.
 
“Chúng tôi tin rằng chỉ những định chế có lợi ích gắn chặt với định mệnh của một trường đại học mới thực hiện tốt vai trò làm “chủ”” – VED khẳng định, và phân tích việc phân quyền làm “chủ” đại học cho địa phương có các thuận lợi như tăng thêm tính lành mạnh trong cạnh tranh giữa các tỉnh thành phố, cũng như gia tăng tính thận trọng trong cân nhắc nhu cầu thực, tính khả thi của việc xây dựng đại học của địa phương mình. Địa phương là nơi có khả năng tốt nhất để vận động được sự ủng hộ xã hội lớn nhất cho trường. Lộ trình giao đại học về địa phương có thể bắt đầu từ các tỉnh thành phố có khả năng tự chủ ngân sách. Với việc cải cách quản trị đại học như ở trên, vai trò của các Bộ chủ quản sẽ được tập trung vào trách nhiệm điều phối, điều tiết ở tầm quốc gia.
 
Tăng tự chủ tài chính. Ba vấn đề lớn về tài chính mà hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đang đối mặt, theo VED, là thiếu kinh phí, bất bình đẳng và thiếu tự chủ tài chính. Cụ thể, VED cho rằng ba thách thức tài chính lớn trong giáo dục đại học Việt Nam hiện nay là: Các trường đại học thiếu kinh phí một cách trầm trọng; Mức học phí cho các trường công cũng rất thấp; Và các nguồn thu khác như nguồn thu từ dịch vụ, nguồn thu từ dịch vụ khoa học, công nghệ, từ viện trợ, tài trợ, hiến tặng cũng quá thấp. Điều này dẫn đến hệ quả là chất lượng đào tạo suy giảm, cơ sở vật chất không đáp ứng yêu cầu và xuống cấp, bất bình đẳng trong cơ hội tiếp cận giáo dục đại học giữa người giàu và người nghèo…Từ phân tích ba vấn đề nói trên, theo VED, cải cách tài chính cho hệ thống các trường đại học Việt Nam cần tập trung vào ba lĩnh vực ưu tiên sau: Tăng đầu tư toàn xã hội vào hệ thống đại học, bao gồm cả tài trợ từ ngân sách lẫn đóng góp của xã hội; Tự chủ tài chính cho các đại học; Thay đổi cách phân bổ ngân sách cho từng trường và chia thành ba kênh (Hỗ trợ trực tiếp cho từng trường; Hỗ trợ thông qua học bổng và tín dụng sinh viên; Hỗ trợ thông qua tài trợ nghiên cứu khoa học).Nhóm cũng lưu ý rằng tăng tự chủ không có nghĩa là Nhà nước giảm hỗ trợ cho giáo dục đại học, mà tăng tự chủ là một phương thức giúp nhà nước phân bổ ngân sách hỗ trợ cho đại học một cách hiệu quả hơn thay vì cào bằng, hay theo những chỉ tiêu có thể bàn cãi. Mô hình dài hạn mà VED đề xuất như sau: Các trường được toàn quyền quyết định các vấn đề như số lượng tuyển sinh, mức học phí, chương trình và chất lượng đào tạo, chi tiêu từ lương đến các khoản chi và đầu tư khác ở mức thị trường, tiền hỗ trợ từ các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ. Bên cạnh đó, có cơ chế giám sát nội bộ và từ bên ngoài, có cơ chế cung cấp thông tin cho người dân lựa chọn trường, quy định từng trường phải trích một phần nhất định từ doanh thu làm học bổng. Theo lộ trình mà VED đưa ra, trong thời gian đầu, Chính phủ có thể vẫn khống chế mức học phí trần (ví dụ mỗi năm học phí được tăng tối đa 25%), đồng thời cho phép mức trần này tăng dần theo từng năm…
 
Tổ chức các trung tâm kiểm định độc lập. Để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, trong điều kiện nguồn lực hữu hạn, Nhà nước nên tập trung vào hai công cụ kiểm định chất lượng và công khai thông tin chất lượng hơn vì tính khả thi, và tính phổ dụng cao hơn.Về kiểm định chất lượng, cần áp dụng nhiều bộ tiêu chí kiểm định chất lượng khác nhau cho các bậc học khác nhau và cho các hình thức học khác nhau.Tổ chức lại các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục thành các trung tâm kiểm định độc lập, nằm ngoài Bộ GD-ĐT. Khuyến khích sự hiện diện của các tổ chức kiểm định quốc tế ở Việt Nam. Việc công khai thông tin chất lượng giao cho một tổ chức độc lập. Bộ thông tin chỉ số có thể bao gồm: mức độ hài lòng của sinh viên sau tốt nghiệp, tỷ lệ sinh viên có việc làm 12 tháng sau tốt nghiệp, thu nhập trung bình của sinh viên sau tốt nghiệp …Khuyến khích và có chính sách hỗ trợ các trường đại học Việt Nam tham gia vào các bảng xếp hạng và đối sánh quốc tế. Về dài hạn, kiểm định chất lượng và công khai thông tin chất lượng cần được xem là hoạt động bắt buộc và định kỳ đối với tất cả các trường, chương trình đại học và cao đẳng trong cả nước.
 
Giảm số môn bắt buộc, giảm số giờ lên lớp. VED cho rằng vấn đề nổi cộm nhất trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy ở đại học Việt Nam là sự ưu tiên dành cho số lượng thay cho chất lượng. VED khuyến nghị về giảng dạy cần giảm số môn bắt buộc, giảm số giờ lên lớp; Tăng số giờ thực tập, thực hành, làm đề tài và làm bài tập. Về nghiên cứu khoa học, lấy trình độ nghiên cứu khoa học làm ưu tiên hàng đầu cho việc tuyển chọn giảng viên. Thiết lập một số vị trí với điều kiện làm việc và đãi ngộ đặc biệt để tạo ra những đầu tầu trong nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng. Sự hỗ trợ của Nhà nước tập trung về các quỹ hoạt động theo mô hình Nafosted. Lấy thành tích khoa học và mức độ công nhận quốc tế làm chỉ tiêu hàng đầu trong việc xét duyệt đề tài.
 
Cần thể chế hoá sự liên kết giữa đại học và công nghiệp. Thế nhưng, VED cũng cho rằng sẽ rất khó có thể cải tổ về cơ bản chế độ tuyển dụng nhân lực khoa học, đặc biệt trong việc thiết lập các vị trí giáo sư đặc biệt, nếu không có cải tổ về quản trị và tài chính đại học.Thiết lập các nghị trường trong đại học. Uy tín của các trường đại học trong xã hội không chỉ phụ thuộc vào tiềm năng tài chính và chất lượng nghiên cứu khoa học và giảng dạy mà còn phụ thuộc vào các định chế dân chủ nội bộ, cũng như khả năng duy trì đạo đức và tự do trong học thuật. Tuy nhiên, theo như phân tích của VED, các định chế dân chủ nội bộ trong các trường đại học Việt Nam còn thiếu hoặc nếu có thì còn khá sơ sài. Khuyến nghị về vấn đề này, VED cho rằng phải thiết lập nghị trường giảng viên với vai trò tham vấn mọi vấn đề liên quan đến giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong trường. Thiết lập nghị trường sinh viên với vai trò tham vấn mọi vấn đề liên quan đến học tập và đời sống sinh viên. Thiết lập các ủy ban thông qua đó giảng viên có thể tham vấn trực tiếp cho Ban giám hiệu. Các trường đại học được tự chủ trong việc thiết lập ưu tiên trong nghiên cứu khoa học và học trình giảng dạy[21].
 
Những đề xuất trên đây rất đáng trân trọng, có căn cứ khoa học và thực tiễn, nên đề nghị các cấp hữu quan vận dụng thực hiện.
*****

Chú thích: [1] Xem thêm, Hồ Bá Thâm, Nhân lực chất lượng cao: Quan niệm và nhu cầu hiện nay. Liên hệ với trường hợp tỉnh Lâm Đồng. http://www.nhantainhanluc.com/2012/07/nhan-luc-chat-luong-cao-quan-niem-va.html.
 
[2] Xem thêm: Đảng CSVN, Dự thảo các văn kiện trình ĐH XII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại ĐH cấp cơ sở), Lưu hành nội bộ, 02/ 2015, tr.11-12.
 
[3] Tiến sỹ, Đại biểu Quốc hội Trần Du Lịch khi bàn về luật tổ chức chính phủ, luật về tổ chức chính quyền địa phương, luật ngân sách, nhấn mạnh đến tài chính công – chính là một trong những nội dung có tính nội hàm của thay đổi vai trò chức năng, cơ cấu, tổ chức, cách thức quản lý của nhà nước. Tiếc là ý kiến của anh Lịch còn lẻ loi.Tôi cũng cố gắng ủng hộ ý kiến của ông Trần Du Lịch ở nhiều chỗ, nhiều nơi, nhưng cũng không hóa giải được cái cô đơn ấy…, 02/06/2015, http://m.vietnamnet.vn/vn/ban-tron-truc-tuyen/240439/-dung-phu-nhan-sach-tron-nhung-gi-vn-lam-duoc--.html.
 
[4] Vấn đề là chúng ta toàn triển khai theo kiểu manh mún. Muốn CEO làm việc hiệu quả thì phải thay đổi bảy, tám nhân tố khác chứ có phải chỉ thuê được họ về là xong đâu. CEO của DN tư nhân hoạt động hiệu quả vì họ có toàn quyền quyết định. Tất nhiên là DN vẫn có cơ chế giám sát, nếu ông quyết sai thì thổi còi ngay lập tức. Nhưng trong phạm vi quyền hạn thì CEO được tự do hành động. Đằng này, đi một bước phải hỏi một bước, đụng một việc là phải xin ý kiến, mà cũng không biết xin ý kiến ai, thì đối với những CEO quen làm việc trong môi trường quốc tế họ không thể thích ứng được. Cho nên, thể chế như thế nó đẩy người ta ra một cách tự nhiên (TS Nguyễn Đình Cung).
 
[5] http://m.vietnamnet.vn/vn/ban-tron-truc-tuyen/240821/tieng-noi-le-loi-va-noi-sot-ruot-cua-bo-truong.html, http://m.vietnamnet.vn/vn/ban-tron-truc-tuyen/241115/-da-den-luc-phai-lam-va-lam-nhanh-len--.html.
 
[6] Xem thêm, Hồ Bá Thâm: Quan hệ biện chứng giữa phát triển bền vững giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực và phát triển bền vững kinh tế - xã hội hiện nay, http://www.nhantainhanluc.com/2015/01/quan-he-bien-chung-giua-phat-trien-ben.html.
 
[7] http://ihs.vass.gov.vn/noidung/tapchi/Lists/TapChiSoMoi/View_Detail.aspx?ItemID=92,  http://www.nhantainhanluc.com/2015/06/lao-ong-va-viec-lam-nhu-cau-va-cung-ung.html.
 
[8] http://pgsm-vietnam.edu.vn/ap-luc-hoi-nhap-lon-voi-doanh-nghiep-trong-va-sau-2015.
 
[9] Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) tại phiên giải trình của Chính phủ cuối tháng 4/2015 vừa qua về việc thực hiện Luật Giáo dục ĐH và vấn đề giải quyết việc làm cho sinh viên (SV) tốt nghiệp đưa ra.
 
[10] Năm 2009-2010, quy mô SV tăng đến 47% so với năm 2004-2005 (từ hơn 1,3 triệu lên đến 1,9 triệu SV). Quy mô tiếp tục tăng mạnh vào năm 2010-2011 (ở mức hơn 2,1 triệu SV) và đạt đỉnh năm 2011-2012 ở mức hơn 2,2 triệu SV, tăng 28% so với năm 2008-2009 (1,7 triệu SV).
 
[11] Chỉ trong 3 năm (giai đoạn 2010-2012) đã có tổng cộng 33 trường ĐH, CĐ thành lập, trong đó có 23 trường ĐH, CĐ công lập (18 trường ĐH, 5 trường CĐ) và 10 trường ĐH, CĐ tư thục. Thời điểm này, trường “mọc lên như nấm” từ Bắc tới Nam như Trường ĐH Nông Lâm Bắc Giang (Bắc Giang), Trường ĐH Công nghiệp Việt Trì (Phú Thọ), Trường ĐH Dầu Khí, Trường ĐH Công nghệ Giao thông Vận tải (Vĩnh Phúc), Trường ĐH Công nghiệp Việt Hung (Hà Nội), Trường ĐH Tài chính - Kế toán (Quảng Ngãi), Trường ĐH Xây dựng Miền Trung (Phú Yên); Trường ĐH Đồng Nai (Đồng Nai), Trường ĐH Kinh tế Kỹ thuật Bình Dương (Bình Dương); Trường ĐH Nguyễn Tất Thành và Trường ĐH Tài nguyên và Môi trường (TP HCM), Trường ĐH Tân Tạo (Long An), Trường ĐH Xây dựng Miền Tây (Vĩnh Long)...
 
[12] Theo báo cáo của Ủy ban Văn hóa - Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội năm 2013.
 
[13] Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP HCM.
 
[14] Nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH An Giang. [15] Hiệu trưởng Trường ĐH FPT.
 
[16] http://nld.com.vn/giao-duc-khoa-hoc/cu-nhan-that-nghiep-tang-dot-bien-phai-quyet-liet-thay-doi-20150521215330927.htm.
 
[17] Hồ Bá Thâm, http://www.nhantainhanluc.com/2015/06/e-nguon-nhan-luc-u-suc-canh-tranh-truoc.html.
 
[18] Cuối năm 2013, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 29/NQ-TW (gọi tắt là Nghị quyết 29).
 
[19] Nguồn: Dạy và học ngày nay, 2015, http://www.nhantainhanluc.com/2015/06/oi-moi-tu-duy-giao-duc-thay-oi-cach.html.
 
[20] Hồ Bá Thâm: “Về một tầm nhìn cần có khi xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế của hệ thống trường đại học trong bối cảnh cải cách giáo dục ở Việt Nam” trong sách VĂN HÓA XÃ HỘI THỜI CÔNG NGGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA, Nxb. Văn hóa thông tin, 2013 (hơn 300 trang), tr.249-275., hoặc http://www.nhantainhanluc.com/2012/11/ve-mot-tam-nhin-can-co-khi-xay-dung.html.

[21] http://m.vietnamnet.vn/vn/giao-duc/243669/nhom-doi-thoai-giao-duc-dua-ra-khuyen-nghi-ve-dai-hoc-viet-nam.html, Xem thêm, Hồ Bá Thâm, Nhân lực chất lượng cao: Quan niệm và nhu cầu hiện nay. Liên hệ với trường hợp tỉnh Lâm Đồng, http://www.nhantainhanluc.com/2012/07/nhan-luc-chat-luong-cao-quan-niem-va.html.

 

Nguồn: nhantainhanluc.com

TỔNG LƯỢT TRUY CẬP: 000000024948779

TRUY CẬP HÔM NAY: 5094

ĐANG ONLINE: 66